Phân tích tính hợp lý trong việc lựa chọn doripenem điều trị viêm phổi bệnh viện tại Khoa Hồi sức tích cực, Bệnh viện Bạch Mai |
The use of Doripenem for treatment of hospital-acquired pneumoniae in Deparment of Intensive Care Medicine, Bach Mai Fospital (Hanoi)
|
Vũ Đình Hòa, Nguyễn Thị Phương Dung, Đỗ Thị Hồng Gấm, Vương Xuân Toàn, Đào Xuân Cơ, Đặng Quốc Tuấn, Nguyễn Thị Tuyến, Nguyễn Hoàng Anh, Nguyễn Gia Bình
|
Số: 518 - Tháng 6/2019 - Trang 8-13
|
Viêm phổi bệnh viện (VPBV) bao gồm viêm phổi liên quan
đến thở máy là một trong những nguyên nhân hàng đầulàm gia tăng gánh nặng bệnh
tật và tử vong. Việc lựa chọn kháng sinh kinh nghiệm phù hợp bao phủ các tác
nhân gây VPBV góp phần cải thiện kết quả điều trị của bệnh nhân, do đó kháng
sinh phổ rộng thường được khuyến cáo sử dụng. Doripenem là kháng sinh phổ rộng
trong nhóm carbapenem mới được đưa vào sử dụng tại một số nước trên thế giới,
trong đó có Hoa Kỳ và các nước Châu Âu. Cơ quan Quản lý Dược phẩm Châu Âu và
Cục Quản lý Dược Việt Nam đã cấp phép cho chỉ định sử dụng doripenemtrong điều
trị VPBV/viêm phổi thở máy (VPTM). Một thử nghiệm lâm
sàng công bố năm 2012 cho thấy tỷ lệ tử vong trong 28 ngày của nhóm dùng
doripenem cao hơn so với nhóm dùng imipenem ở bệnh nhân VPTM và nghiên cứu này
đã phải dừng trước thời hạn. Do vậy, Cơ quan Quản lý Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA)
cảnh báo không sử dụng doripenem trong điều trị VPTM và không phê duyệt chỉ
định điều trị VPBV của kháng sinh này. Khác với quan điểm của FDA, Cơ quan Quản
lý Dược phẩm Châu Âu (EMA) cho rằng không thể kết luận chính xác từ nghiên cứu
này đồng thời việc sử dụng doripenem trong thời gian ngắn (7 ngày) là yếu tố
quan trọng dẫn đến kết cục lâm sàng của bệnh nhân xấu hơn khi so sánh với nhóm
đối chứng. Vì vậy, EMA khẳng định lợi ích của doripenem vẫn vượt trội hơn nguy
cơ nếu sử dụng liều cao hơn và thời gian điều trị dài hơn ở VPBV có kèm theo
thở máy hoặc nhiễm vi khuẩn đa kháng. Tại Việt Nam,
doripenem mới được đưa vào sử dụng và thông tin sử dụng trong VPBV còn rất hạn
chế. Trong khi đó, meropenem hiện nay đang là kháng sinh thuộc nhóm carbapenem
phổ biến được dùng rộng rãi trong điều trị VPBV/VPTM tại các đơn vị điều trị
tích cực. Do đó, tiến hành nghiên cứu này nhằm phân
tích việc sử dụng của doripenem trong phác đồ điều trị VPBV tại Khoa Hồi sức
tích cực, Bệnh viện Bạch Mai và so sánh hiệu quả với phác đồ có chứa meropenem.
Đối
tượng: Hồ sơ bệnh án (HSBA) được
chẩn đoán VPBV.
Phương
pháp: Nghiên cứu hồi cứu mô tả có so
sánh hiệu quả điều trị giữa hai nhóm doripenem và meropenem.
Kết luận
Bệnh nhân được sử dụng doripenem trong cả phác đồ kinh
nghiệm và phác đồ thay thế trong điều trị VPBV và hiệu quả điều trị cho thấy
không khác meropenem.Có thể cân nhắc sử dụng doripenem trong các phác đồ phối
hợpưu tiên áp dụngchế độ liều dựa trên các dữ liệu dược động học và dược lực
học để đảm bảo để tối ưu hóa hiệu quả điều trị. Cần tiếp tục theo dõi, đánh giá
và thu thập thông tin để hoàn thiện dữ liệu lâm sàng từ
thực tế điều trị VPBVcủa doripenem trên.
|
Viewing carbapenems including doripenem as
backbone antimicrobial agents for hospital-acquired pneumonia (HAP) commonly involving
multidrug resistant pathogens, the use of doripenem was investigated to compare
the treatment outcomes of doripenem-based and meropenem-basedregimens in HAP by
retrospective study of medical records of patients diagnosed with HAP and
admitted to Department of Intensive Care Medicine, Bach Mai Hospital from March
2017 to January 2018. A. baumannii, P. aeruginosa and K. pneumoniae were common
isolated pathogens. Doripenem was most commonly indicated in empirical
therapy (57.0 %), both as monotherapy and in combination with quinolon,
colistin or glycopeptid. With microbiological confirmation, doripenem combined
with colistin was used in up to 81.0 % of the cases. No significant difference
was observed in clinical success rate between doripenem-based and
meropenem-based regimens (45.7 % and 44.3 %, respectively) with ORa =
1,087; 95 % CI, 0.579 - 2.039. These findings suggested the high efficacy of
doripenem as empirical or microbiologically confirmative regimens in HAP, where
the clinical outcome appeared closely similar to meropenem. Doripenem in
combination therapy with an optimized dosing strategy and a rational treatment
duration should be considered to improve clinical efficicacy of HAP treatment.
|
|
Quay trở lại |