Ngày
nay, độc tố vi nấm trong nông sản, cụ thể là các sản phẩm ngũ cốc và hạt có dầu,
đã trở thành vấn đề toàn cầu. Khí hậu nhiệt đới nóng ẩm ở Việt Nam là điều kiện
thuận lợi cho các loài nấm mốc phát triển, đặc biệt trên các sản phẩm ngũ cốc
và hạt có dầu. Do đó, nguy cơ ô nhiễm độc tố vi nấm trong các sản phẩm này
là rất cao. Một số nhóm độc tố vi nấm chính được quan tâm ở nước ta gồm:
aflatoxin (AF), ochratoxin A (OTA), fumonisin B1 (FB1), deoxynivalenol (DON) và
zearalenon (ZEA).
Miền
Bắc Việt Nam là khu vực rộng, có địa hình đa dạng, có khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm với 2 mùa rõ rệt: hè và đông. Phần lớn
thời gian trong năm, nhiệt độ và độ ẩm cao rất thuận lợi cho sự phát triển của
các loài nấm sinh độc tố đặc biệt là các loài nấm thuộc chi Aspergillus và Pennicillium – có thể sinh các độc tố AF và OTA. Ngoài ra, khí hậu
lạnh vào mùa đông cũng có thể thuận lợi cho các loài nấm thuộc chi Fusarium – có thể sinh các độc tố DON và
FB1.
Đã có một số nghiên cứu
về hàm lượng độc tố vi nấm ở Việt Nam được thực hiện và công bố. Trong ngô và gạo ở Lào Cai có khoảng 17,1 % mẫu gạo và 28,1 % mẫu ngô bị nhiễm AF B1; 6,3 % mẫu gạo và 23,3 % mẫu ngô bị nhiễm FB. Đánh giá mức độ ô nhiễm các
mycotoxin trong ngô và lạc ở Bắc Giang cho thấy có 46,7 % số mẫu lạc bị nhiễm AF trong đó có 6,7 % vượt giới hạn cho phép và 58,3 % số mẫu bị nhiễm fumonisin B1 nhưng đều không vượt quá giới hạn cho phép.
Trong các mẫu gạo được lấy ở 5 tỉnh miền
Trung của Việt Nam đã được xác định cho thấy có 51 % số mẫu gạo bị nhiễm AF B1 với hàm lượng cao nhất là
30 µg/kg.
Phần
lớn các công bố cho đến nay mới tập trung vào 1 - 2
nhóm độc tố vi nấm chính. Đối tượng mẫu chủ yếu tập trung vào nhóm ngô và lạc.
Chưa có các nghiên cứu về hàm lượng độc tố vi nấm khác như ZEA. Trong nghiên cứu
này, hàm lượng các độc tố vi nấm gồm AF (B1, B2, G1, G2), FB1, OTA và ZEA trong
một số nhóm sản phẩm nông sản phổ biến tại một số tỉnh phía Bắc Việt Nam sẽ được xác định. Các kết quả này là bước
quan trọng nhằm đánh giá nguy cơ của các độc tố vi nấm đến sức khỏe người sử dụng.
Đối tượng
nghiên cứu
Đối tượng mẫu thực phẩm được sử dụng trong nghiên cứu
là ngũ cốc (ngô, gạo) và hạt có dầu (lạc, vừng) được lấy ngẫu nhiên tại 5 tỉnh,
thành phố ở miền Bắc gồm Bắc Giang, Hà Nội, Hà Giang, Thái Bình và Thanh Hóa
trong giai đoạn từ 2016 - 2018.
Phương pháp phân tích các độc tố trong mẫu: Sử dụng phương
pháp phân tích bằng sắc ký lỏng khối phổ đã được thẩm định các chỉ tiêu. Các độc tố vi nấm được xác định đồng thời bằng kỹ
thuật LC-MS/MS kết hợp với quá trình chiết bằng kỹ thuật QuEChERS.
Kết luận
Qua quá trình lấy mẫu và kiểm nghiệm một số thực phẩm
cho thấy vẫn còn tỷ lệ đáng kể các mẫu ngũ cốc và hạt có dầu bị nhiễm độc tố vi
nấm vượt giới hạn cho phép, đặc biệt là đối với aflatoxin B1 trên nền mẫu ngô
và lạc. Hà Giang là địa phương được xác định có hàm lượng độc tố vi nấm cao
nhất trong ngô. Do đó, việc đánh giá phơi nhiễm của các độc tố vi nấm là rất
cần thiết để xác định mối nguy của các độc tố vi nấm, đặc biệt là aflatoxin B1
trong chế độ ăn.
|
The method for
the multi-mycotoxins determination was applied to quantify 7 types of
mycotoxins in grain (rice and maize) and oilseed (peanut and sesame) including
aflatoxins (B1, B2, G1, G2), fumonisin B1, ochratoxin A, and zearalenone. The
LOD of the method was 0.1 µg/kg for aflatoxins, 0.5 µg/kg for ochratoxin A,
zearalenone and 25 µg/kg for fumonisin B1. The samples were collected from the
markets and household storage of 5 provinces namely Bac Giang, Ha Noi, Ha
Giang, Thai Binh, and Thanh Hoa. The results show that 111 of 996 samples
(11.14 %) were contaminated with aflatoxin B1 at the concentration higher than
the maximum level. The mycotoxin content in maize in Ha Giang was highest among
the analyzed products and sampling locations. The average level of aflatoxin B1
in maize in Ha Giang is 139 µg/kg, while those of other provinces varies
from 8-25 µg/kg. About 14.0 % of the samples in Ha Giang have ochratoxin A
content exceeding the maximum limit. Meanwhile, the proportion of samples with
FB1 content exceeded the limit was very low, with only 3 and 2 maize samples in
Ha Giang and Thanh Hoa, respectively. No sample with ZEA content exceeded the
maximum limit.
|