Phản ứng có hại của thuốc (ADR) là một
trong những nguyên nhân làm tăng tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ tử vong, kéo dài
thời gian nằm viện, giảm tuân thủ điều trị và tăng chi phí điều trị cho bệnh
nhân. Theo các nghiên cứu trên bệnh nhân nội trú, tỷ lệ ADR có thể phòng tránh
được (pADR) dao động từ 0,3 - 30,7%, trong đó, thuốc tim mạch là nguyên nhân
phổ biến nhất dẫn tới pADR. Đáng chú ý, chi phí tổn thất do ADR có thể phòng
tránh được cao hơn so với những ADR không phòng tránh được. Vì vậy, nếu giảm
thiểu được tỷ lệ ADR có thể phòng tránh được sẽ giúp giảm thiểu đáng kể hậu quả
và gánh nặng của ADR. Viện Tim mạch Việt Nam, Bệnh viện Bạch Mai là viện chuyên
khoa đầu ngành Tim mạch trong cả nước, với số lượng bệnh nhân vào nằm điều trị
nội trú hàng năm đều tăng lên không ngừng (hơn 59.000 bệnh nhân trong năm
2017). Hoạt động giám sát phản ứng có hại của thuốc tại Viện Tim mạch được thực
hiện theo quy trình chung của bệnh viện thông qua báo cáo tự nguyện theo quy
định của Bộ Y tế nên số lượng báo cáo ADR còn hạn chế (16 báo cáo trong năm
2017). Con số này chưa thực sự phản ánh thực tế ADR bệnh nhân gặp phải trong
điều trị tại Viện Tim mạch. Bên
cạnh đó, các ADR ghi nhận được chủ yếu là phản ứng typ B như phản ứng trên da
và mô dưới da (ngứa, ban đỏ, mẩn ngứa,...), rối loạn toàn thân (sốc phản vệ),
trong khi các báo cáo ADR typ A là những báo cáo có thể phòng tránh được và
thường liên quan đến các thuốc tim mạch được ghi nhận ở mức độ rất hạn chế. Với mong muốn
thúc đẩy hoạt động phát hiện và báo cáo các phản phản ứng có hại của thuốc trên
bệnh nhân tim mạch, đặc biệt là các phản ứng có khả năng phòng tránh được, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này với
mục tiêu xây dựng và đánh giá khả năng phát hiện ADR của bộ công cụ (trigger
tool) tại một đơn vị lâm sàng chuyên khoa tim mạch thuộc Viện Tim mạch Việt
Nam, Bệnh viện Bạch Mai thông qua hoạt động của dược sĩ tại khoa.
Đối tượng nghiên cứu
Triển khai áp dụng bộ công cụ phát hiện
ADE đã xây dựng được thực hiện trên tất cả bệnh nhân nhập Khoa X từ tháng
11/2018 đến tháng 01/2019 với tiêu chuẩn lựa chọn là bệnh nhân nằm điều trị tại
khoa ít nhất 24 giờ, trên 18 tuổi và tiêu chuẩn loại trừ là bệnh nhân tâm thần
hay đang phục hồi chức năng. Bệnh nhân được theo dõi từ khi nhập Khoa X đến khi
chuyển khoa hoặc xuất viện.
Phương pháp nghiên cứu
- Xây dựng bộ công cụ phát hiện
biến cố bất lợi liên quan đến thuốc.
- Triển khai áp dụng bộ công cụ phát hiện
biến cố bất lợi liên quan đến thuốc.
Kết luận
Nghiên cứu đã xây dựng được bộ công cụ
phát hiện ADR trên bệnh nhân tim mạch và bước đầu đã triển khai áp dụng bộ công
cụ này tại một đơn vị lâm sàng chuyên khoa tim mạch, ghi nhận một tỷ lệ đáng kể
ADR và pADR cao hơn rõ rệt so với số báo cáo ADR từ hệ thống báo cáo tự nguyện.
Kết quả này là cơ sở để nhân rộng phương pháp phát hiện ADR thông qua bộ công
cụ phát hiện tín hiệu tại Viện Tim mạch Việt Nam cũng như trong Bệnh viện Bạch
Mai, thúc đẩy hoạt động đảm bảo an toàn trong sử dụng thuốc cho người bệnh.
|
A trigger tool for
detection of adverse drug reactions (ADRs) was developed, which was practically
tested at X Department of Vietnam National Heart Institute. Based on
systematically reviewing researches on “trigger tool” and drug use evaluation,
a toolset of 30 triggers was constructed for ADRs detection including 8 medication, 12 lab
test, 9 general care and another one. The developed tool was used to
prospectively monitor and identify suspected ADRs in patients admitted to the
department in a period of 2 consecutive months. The study involved 245 hospital
admissions with 237 patients at the median age of 62.5 (± 15.3), of which 132 were male (55.7%). In total, 194 triggers were detected in
103 patients, with a mean of 0.8 (194/237) triggers per patient (ranging 0 to 5
triggers). The rate of patients with ADRs was 30.2 per 100 admissions, and
25.3% of patients experienced at least 1 ADR. The most observed ADRs were
hemorrhage (36.7%), dry cough (18.3%), hyperkalemia (11.7%), hypokalemia (11.7%) and diarrhea (11.7%). The most common medications were antithrombotics (40.0%), angiotensin-converting enzyme inhibitors (30.0%)
and quinolone antibacterials (11.7%). Preventable
adverse drug reaction (pADR) incidence was 7.2 per 100 patients. The main causes of pADR were inappropriate dosage
(47.1%) and drug-drug interactions (41.2%). In conclusion, the proposed
trigger tool proved helpful in identification of ADRs in cardiovascular
patients. Also, these findings might motivate
expansion of this activity in Vietnam National Heart Institute and other
clinical departments of Bach Mai hospital as well, to ensure and promote drug
safety.
|