Nhiễm nấm xâm lấn do các loài Candida albicans là nguyên nhân chính
gây tử vong trên toàn thế giới, đặc biệt là ở những người bệnh bị suy giảm miễn dịch. Hiện nay việc điều trị nhiễm nấm gặp nhiều khó khăn vì số lượng thuốc điều trị nấm hạn chế, thêm vào đó là sự kháng thuốc của nấm với hai nhóm thuốc
chống nấm chính: azol và
echinocandin. Do đó, việc tìm kiếm các mục tiêu mới và các chiến lược điều trị nhiễm nấm mới đang được các nhà khoa
học rất quan tâm hiện nay. Protein kinase Pkc1 của Candida
albicans (CaPkc1) đóng vai trò quan trọng trong hiện tượng kháng thuốc hoặc dung nạp
thuốc chống nấm. Enzym này liên quan đến tính toàn vẹn của thành tế bào trong quá
trình phát triển cũng như sự hình thành và đáp ứng lực căng thành tế bào nấm. Do đó, ức chế Pkc1 dẫn tới ức chế
sinh tổng hợp ergosterol của thành tế bào trong mô hình thử nghiệm trên chuột nhiễm nấm Candida toàn thân. (–)-Cercosporamid, một chất có nguồn gốc tự nhiên được phân lập từ môi
trường nuôi cấy một loài nấm gây bệnh trên thực vật Cercosporidium
henningsii, là chất ức chế CaPkc1 duy nhất
được biết đến hiện nay
với giá trị IC50 là 44 nM. Trong các nghiên cứu về hợp chất chống
nấm, (–)-cercosporamid được coi là một chất dẫn
đường tiềm năng.
Michael A. Conover và CS. đã nghiên cứu, cho thấy các đặc tính sinh học liên quan đến
(–)-cercosporamid, như ức chế
CaPkc1, không được tìm thấy ở acid usnic có cấu trúc tương tự. Nghiên cứu của Michael
A. Conover cũng cho thấy phần dihydroxybenzofuran-carboxamid trong cấu trúc của (–)-cercosporamid đóng vai trò quan
trọng trong hoạt tính ức chế CaPkc1.
Dựa trên công thức của chất dẫn đường (–)-cercosporamid, nhóm
nghiên cứu chúng tôi thiết kế, tổng hợp chất mới 8 giữ nguyên phần mang
hoạt tính (phần A, không bao gồm carbon bất đối xứng), thay phần B bằng vòng
pyrimidin và thử hoạt tính ức chế CaPkc1, độc tính tế bào của hợp chất tổng hợp được so với chất dẫn đường
(–)-cercosporamid.
Nguyên liệu
Các
hóa chất, dung môi được mua từ các nhà cung cấp (Công ty Hóa chất Aldrich,
Merck, Acros) với độ tinh khiết trên 98% và sử dụng không qua tinh chế. Sắc ký
lớp mỏng (TLC) thực hiện trên bản mỏng silica gel 60F254
(Merck) và quan sát dưới đèn UV, bước sóng 254 nm. Nhiệt độ nóng chảy được đo bằng máy
Electrothermal digital IA9300. Phổ cộng hưởng từ hạt nhân được ghi trên máy
Bruker Avance 400 với TMS làm chất chuẩn nội. Phổ khối được đo trên máy Waters
Acquity UPLC ZQ 2000 với kỹ thuật ion hóa phun điện tử (ESI).
Phương pháp nghiên cứu
- Tổng hợp hoá học.
- Tác nhân và điều kiện phản
ứng.
- Thử tác dụng ức chế CaPkc1.
- Thử độc tính tế bào.
Kết luận
Đã tổng
hợp thành công dẫn chất 4-amino-7,9-dihydroxy[1]benzofuro[3,2-d]pyrimidin-6-carboxamid qua 7 bước, bằng các phản ứng hóa học
thông thường như: aminocarbonyl hóa trực tiếp, iodo-hóa, cyanid
hóa, O-alkyl hóa, phản ứng đóng vòng, tách
loại nhóm bảo vệ methyl. Cấu trúc của các chất tổng hợp đã được khẳng
định bằng các phương pháp 1H-NMR, 13C-NMR, MS.
Chất tổng hợp cho thấy hoạt động ức chế CaPkc1 là 84,69%, cao hơn chất
dẫn đường cercosporamid (32,87%) và ít độc
tính hơn 100 lần.
|