Hiện tượng đề kháng đa thuốc (MDR) ở các
bệnh nhân ung thư kể cả đối với các thuốc có cấu trúc và chức năng khác nhau là
nguyên nhân dẫn đến thất bại điều trị trên lâm sàng. Trong đó, hoạt động của
các bơm vận chuyển ngược của nhóm protein màng ABC liên quan mật thiết tới
nguồn gốc của hiện tượng đa kháng này. ABCG2/BCRP là bơm vận chuyển thứ 2 thuộc
phân họ G, trong họ bơm vận chuyển thuốc ABC. ABCG2 đóng vai trò như một kênh
thải chất độc cho tế bào, biểu hiện nhiều ở ruột, gan, thận, mô ung thư làm làm giảm sinh khả dụng của thuốc. Đồng thời ở
những tế bào ung thư việc tăng biểu hiện của ABCG2 dẫn đến thất bại trị liệu.
Để khắc phục hiện tượng này,
việc tìm ra các tác nhân ức chế ABCG2 là thiết yếu. Tuy nhiên, việc tìm kiếm
một chất ức chế mới là một quá trình lâu dài và tốn kém, vậy nên việc xây dựng các mô hình sàng lọc ảo
đang là vấn đề được quan tâm hiện nay. Với hy vọng ứng dụng trong sàng lọc số lượng lớn các chất có
sẵn trong ngân hàng dữ liệu, định hướng thiết kế và tổng hợp nhằm mục đích giải
thích cơ chế tác động cũng như tìm ra những chất ức chế ABCG2. Các mô hình này
cho phép tìm kiếm nhanh các cấu trúc có khả năng gắn kết cao vào đích tác động
từ một ngân hàng dữ liệu lớn của rất nhiều hợp chất hóa học. Nghiên cứu xây dựng
mô hình sàng lọc ảo trên các chất ức chế ABCG2 được thực hiện với các nội dung:
(i)
Xây dựng mô hình pharmacophore từ các chất có hoạt tính ức chế mạnh bơm ABCG2; (ii)
Xây dựng được mô hình mô tả phân tử docking các chất ức chế bơm ABCG2; (iii)
Tiến hành sàng lọc các chất ức chế bơm ABCG2 trên tập drugbank và tập TCM.
Phương pháp
nghiên cứu
Do cấu trúc kết tinh tinh thể của
protein ABCG2 vẫn chưa được xác định, nên phương pháp xây dựng mô hình
pharmacophore dựa trên ligand vẫn giữ vai trò chủ đạo.
Kết luận
Nghiên cứu này đã xây dựng được mô hình sàng lọc các
chất ức chế mạnh bơm ABCG2 dựa trên 2 mô hình là mô hình pharmacophore trên các
chất ức chế mạnh ABCG2 và mô hình mô tả phân tử docking xây dựng trên mô hình
protein homology ABCG2; và đã tiến hành ứng dụng sàng lọc các chất ức chế trên
2 tập chất là Drugbank và TCM. Trong nghiên cứu này, mô hình pharmacophore được xây
dựng dựa trên các chất có hoạt tính ức chế mạnh. Mô hình bơm vừa được xây dựng được áp dụng để tiến hành docking với các
chất có hoạt tính ức chế. Kết quả docking cho thấy các chất này có ái lực gắn
kết cao với khoang trung tâm (93,54 % các chất có điểm số docking nhỏ hơn hoặc
bằng - 10 KJ/mol) và những acid amin Gln 181, Phe 182, Asn 391, Gln 393, Glu
446, Ser 443, Val 533, Val 534, Val536, Leu 539 là những acid amin có quan
trọng trong khoang gắn kết trong đó 2 acid amin Gln 393, Asn 391 là 2 acid amin
có mặt trong hầu hết các liên kết hydro tạo ra giữa khoang gắn kết vào chất ức
chế. Trước
khi có cấu trúc có độ phân giải tốt hơn của bơm ABCG2 thì mô hình docking trên
protein tạo ra từ kỹ thuật tương đồng này có thể sử dụng để dự đoán các chất có
tiềm năng ức chế ABCG2. Các chất cho kết quả tốt khi sàng qua mô hình này có
thể ưu tiên tổng hợp hoặc chiết xuất và thử hoạt tính sinh học.
|